Thuyết trí thông minh đa dạng hay còn gọi là thuyết đa trí tuệ (Multi-Intelligence) được phát triển bởi nhà tâm lý học kiêm giáo sư Howard Gardner, người từ chối coi trí thông minh là một hiện tượng đơn nhất.
Nếu trong phần lớn thế kỷ 20, người ta cho rằng trí thông minh là khả năng chung và có thể đo lường được ở tất cả mọi người, thì hệ thống này bắt đầu rạn nứt từ những năm 70 trở đi. Trên thực tế, ngày nay trí thông minh được định nghĩa là:
Khả năng hiểu thế giới chúng ta đang sống, giải quyết các vấn đề về môi trường và văn hóa xã hội đặt ra cho chúng ta trong mọi thời điểm của cuộc sống.
I - Thuyết đa trí tuệ: các trí thông minh đa dạng
Theo Gardner, các lý thuyết cổ điển về trí thông minh mang tính giản lược và đơn giản, bởi vì chúng chỉ đo lường hai loại, đó là trí thông minh ngôn ngữ và logic - toán học. Tuy nhiên, trí thông minh không phải là kết quả của tổng số hai lĩnh vực nhận thức này.
Vào năm 1983, Gardner, một nhà nghiên cứu của Harvard, chứng minh rằng không chỉ có một trí thông minh mà có tới chín trí thông minh, ám chỉ nhiều cấu trúc não độc lập với nhau. Điều này có nghĩa là một cá nhân thông minh theo chín cách khác nhau ngay cả khi trên thực tế, các loại trí thông minh khác nhau kết hợp và bổ sung cho nhau.
Vì vậy, vào thời kỳ hoàng kim của tâm lý học và chủ nghĩa hành vi, người ta đã phát hiện ra rằng tâm trí có thể được huấn luyện để học các kỹ năng mới nhờ sự hiện diện của các dạng trí thông minh khác nhau .
Trong lý thuyết của Gardner, từ thông minh được sử dụng theo hai nghĩa.
Trí thông minh có thể biểu thị một đặc điểm cụ thể của loài.
Trí thông minh cũng có thể biểu thị sự khác biệt cá nhân. Trong khi tất cả mọi người sở hữu tất cả các loại trí thông minh, mỗi người có sự kết hợp các loại trí thông minh cụ thể của riêng họ.
Các cá nhân không bao giờ được ban cho chỉ một trí thông minh. Thay vào đó, những người không bị tổn thương não sở hữu tất cả trí thông minh, thứ mà họ kết hợp theo nhiều cách khác nhau để tạo ra điều gì đó có ý nghĩa đối với họ, hoặc để hoàn thành vai trò, thực hiện một nhiệm vụ.
II - 9 loại trí thông minh
1. Trí thông minh nội tâm
Gardner coi nó là sự phản chiếu giữa các cá nhân với nhau, bởi vì chúng là một phần của quá trình gồm hai giai đoạn: một giai đoạn hướng ngoại và một giai đoạn hướng nội. Nó liên quan đến khả năng phản ánh cá tính của một người và khả năng hòa nhập của nó vào bối cảnh xã hội xung quanh; nó cũng dễ dàng xác định với những tính cách khác với chính mình, xác định cảm xúc của một người và có thể thể hiện chúng.
Những cá nhân này học tốt nhất thông qua phản ánh cá nhân; bạn phải cho họ cơ hội được ở một mình để viết, vẽ hoặc nói chung là tự mình theo dòng suy nghĩ.
Sẽ rất hữu ích khi xác định rằng loại trí thông minh này được liên kết chặt chẽ với chỉ số ý nghĩa (MQ) mà đối tượng gán cho hành động của chính mình. Trên thực tế, nó thúc đẩy đứa trẻ tự hỏi: "Tại sao tôi phải học cái này?", "Tôi cần nó để làm gì?". Và do đó, điều quan trọng là phải trau dồi nó để tất cả các môn học đều tăng lên.
2. Trí thông minh tương tác - giao tiếp
Nó lan rộng khắp não nhưng chủ yếu ở thùy trước trán. Đó là về khả năng kết nối với những người khác, bao gồm hiểu ý định, động cơ, cảm xúc và mong muốn của người khác, từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho hành động nhóm. Những đối tượng này rất đồng cảm và trên thực tế, trí thông minh tương tác cùng với trí thông minh nội tâm đã được chính Gardner định nghĩa là "trí thông minh cảm xúc". Những sinh viên này học tốt nhất nếu họ có thể tương tác với những người khác, khám phá những quan điểm mới, kết bạn, tổ chức công việc nhóm.
3. Trí thông minh ngôn ngữ
Trí thông minh ngôn ngữ là khả năng học và tái tạo ngôn ngữ, sử dụng nó một cách thích hợp để thể hiện bản thân bằng lời nói và bằng văn bản. Cách học tốt nhất là bằng cách viết, thảo luận và đọc. Vì vậy, giáo viên có thể khuyến khích sự phát triển của trí thông minh này bằng cách yêu cầu các bài thuyết trình, bài thơ, bài tiểu luận và bài viết, tranh luận và thảo luận. Điều quan trọng là chỉ ra các bài tập chức năng để cải thiện cú pháp, ngữ pháp, ngữ nghĩa và cách viết .
4. Trí thông minh logic - toán học
Đặc điểm chính của dạng trí thông minh này là khả năng tìm giải pháp logic cho các vấn đề hoặc giải các phép toán. Nó liên quan đến cả bán cầu não trái và phải: với bán cầu đầu tiên chúng ta ghi nhớ các ký hiệu toán học và với bán cầu thứ hai, chúng ta xây dựng các khái niệm. Người có thế mạnh về trí thông minh logic thích các hoạt động như định lượng kết quả từ phân tích vấn đề, xác định mối quan hệ nhân quả trong các hiện tượng, giải câu đố, khám phá thuật toán và chuỗi logic.
5. Trí thông minh âm nhạc - thính giác
Trí thông minh này có liên quan đến bán cầu não phải, mặc dù những người đã nghiên cứu về âm nhạc xử lý âm thanh ở bán cầu não trái. Xác định khả năng nhận biết và sáng tác giai điệu, chơi một hoặc nhiều nhạc cụ và điều chỉnh giọng hát của một người theo quan điểm ca hát.
Điều quan trọng cần nhớ đây là trí thông minh biết cách nhận biết các cấu trúc nói chung, không chỉ hiện diện trong các bài hát. Như vậy, nó không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thính giác mà còn chảy vào lĩnh vực toán học vì nó được hiểu là nghiên cứu về cấu trúc.
6. Trí thông minh tự nhiên
Nó liên quan đến khả năng nhận biết và phân loại các yếu tố của môi trường xung quanh. Những người có những kỹ năng này cũng thích nghiên cứu thực vật học, động vật học và các ngành khoa học khác và trên hết là các quá trình học tập đặc trưng cho chúng, tức là phân loại. Do đó, những học sinh này học tốt hơn nếu các khái niệm hóa được đi kèm với các tham chiếu đến các hiện tượng tự nhiên hoặc sự tái tạo của chúng, có thể trực tiếp bằng cách làm việc ngoài trời. Cũng rất hữu ích khi gọi chúng để phân loại các sự kiện và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho chúng, thông qua sơ đồ khái niệm.
7. Trí thông minh không gian - thị giác
Dạng trí thông minh này là điển hình của những cá nhân có trí nhớ cao về các chi tiết của môi trường và các số liệu xung quanh nó; biết cách điều hướng không gian và nhận biết các đối tượng ba chiều thông qua các biểu diễn sơ đồ phức tạp. Dạng trí tuệ này chủ yếu được thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật thị giác và do đó các đối tượng sẽ học tốt nhất thông qua các kích thích thị giác như đồ họa, hình vẽ, phim, video và ảnh chụp. Để tăng trí thông minh này, giáo viên có thể yêu cầu tạo bảng biểu, sơ đồ, trình chiếu Power Point cũng như cắt dán, điêu khắc, sơ đồ tư duy.
8. Trí thông minh thể chất
Nó nằm chủ yếu ở tiểu não, đồi thị và hạch nền, quyết định khả năng phối hợp cử động cao. Người sở hữu nó giao tiếp bằng các chuyển động và cử chỉ, đồng thời thích thực hiện các hoạt động thể chất liên quan đến môi trường xung quanh. Do đó, những đối tượng này học tốt nhất thông qua chuyển động và hoạt động bằng tay, bởi vì chính thông qua "làm" mà họ khái niệm hóa các nội dung sẽ được tiếp thu.
Những người được phú cho dạng trí thông minh này có khả năng cân bằng rõ rệt trong việc tự kiểm soát tư thế, một khía cạnh phổ biến ở các vận động viên, vũ công, thợ thủ công và bác sĩ phẫu thuật.
9. Trí thông minh triết học - hiện sinh
Nó liên quan đến xu hướng suy nghĩ về những vấn đề lớn như sự tồn tại, sự sống và cái chết. Nó được tìm thấy ở các nhà triết học mà cả ở các nhà vật lý, bởi vì nó cho phép rút ra từ các quá trình phức tạp của các phạm trù khái niệm trừu tượng có khả năng tập hợp và giải thích nhiều sự kiện ngẫu nhiên.
III - Thuyết đa trí tuệ và ứng dụng
Một số người trong chúng ta có thiên hướng thể hiện rõ nét trong một số loại trí thông minh này. Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển từng loại: chỉ cần biết trí thông minh nào mạnh nhất và trí thông minh nào yếu nhất của một người. Điều này cũng có nghĩa là được đặt trong những điều kiện thích hợp để học hỏi và khuyến khích từ các chuyên gia, những người hiểu biết về nhiều loại trí thông minh, mà không thiên vị một số khía cạnh gây bất lợi cho những khía cạnh khác.
Thật không may, ở một số quan điểm giáo dục chủ yếu coi trọng trí thông minh logic - toán học và ngôn ngữ. Điều này phá vỡ các hình thức thể hiện khác nhau của tiềm năng con người không kém phần quan trọng. Kết quả là nâng cao những học sinh có năng khiếu suy luận logic và kỹ năng ngôn ngữ nhất, gây bất lợi cho những học sinh sở hữu các dạng trí thông minh khác.
Thuyết đa trí tuệ có tác động mạnh mẽ đến việc học ở trường. Đặc biệt là về phương pháp dạy và học, cũng như đánh giá. Ý tưởng rằng một đứa trẻ có nhiều trí thông minh, được phát triển theo những cách khác nhau, buộc giáo viên, nhà giáo dục và đào tạo phải tiếp cận trẻ một cách phức tạp, đa dạng hóa việc giảng dạy. Nhà trường có thể định hướng các cá nhân trong việc phát triển và tích hợp những trí thông minh này. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ này. Trong một thời gian dài, trong môi trường giáo dục, sự khác biệt cá nhân ít được quan tâm và kết quả là mỗi người được đối xử như những người khác. Mặt khác, cách tiếp cận do Gardner đề xuất dựa trên một phương pháp khác, có thể nói là ngược lại, trong đó cá nhân phải được đặt ở trung tâm để cho phép một cách khách quan nhất về đặc điểm cá nhân của từng người học và do đó cho phép các phương pháp giảng dạy được thiết kế đặc biệt để giúp mọi người học theo thời gian, phong cách và phương pháp của riêng họ.
Gardner lập luận, rất khó phát triển tất cả các dạng trí thông minh này trong môi trường học đường, nhưng điều quan trọng là phải biết về sự tồn tại của chúng và lấy lý thuyết này làm kim chỉ nam cho việc rèn luyện.
Như chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu, thuyết đa trí tuệ của Gardner có tiềm năng ứng dụng to lớn trong giáo dục và công việc, có chức năng cải thiện chất lượng cuộc sống của các cá nhân. Trên thực tế, mục đích của nó là xác định một phương pháp nâng cao trí thông minh của từng cá nhân cũng như sự hợp tác của họ, để giúp mỗi người sống tốt hơn bằng cách tận dụng tối đa tiềm năng của họ.