top of page
Ảnh của tác giảOrnaturic

Dấu hiệu bệnh bướu cổ là gì? Cách trị bướu tuyến giáp

Bệnh bướu cổ là sự gia tăng thể tích của tuyến giáp, tuyến hình con bướm nằm ở đáy cổ. Tuyến giáp là một tuyến kiểm soát nhiều chức năng của cơ thể như hoạt động của tim, chuyển hóa cơ bản, sử dụng carbohydrate và lipid, chuyển hóa xương ở thai nhi và trẻ sơ sinh, sự phát triển đúng đắn của hệ thống thần kinh. Bướu cổ không nhất thiết liên quan đến trục trặc tuyến giáp. Thiếu i-ốt là nguyên nhân quan trọng gây bệnh bướu cổ.

Bệnh bướu cổ
Bệnh bướu cổ

1. Bệnh bướu cổ là gì?

Bướu cổ là tình trạng tăng thể tích của tuyến giáp, có thể khu trú (một hoặc nhiều chỗ sưng chỉ giới hạn ở một phần của tuyến) hoặc lan rộng (toàn bộ cơ quan tăng kích thước đồng đều).

Bướu cổ có thể xảy ra ở những bệnh nhân có hoạt động quá mức, giảm hoặc bình thường của tuyến giáp. Tùy thuộc vào tình trạng chức năng, bướu cổ có thể độc (liên quan đến cường giáp) hoặc không độc (phì đại không phải khối u, không cường giáp, suy giáp hoặc viêm).

Rối loạn này tương đối phổ biến hơn ở phụ nữ và có thể di truyền trong gia đình.

2. Nguyên nhân gây bệnh bướu cổ

Bướu cổ có thể là một triệu chứng thoáng qua hoặc chỉ ra sự hiện diện của một tình trạng nghiêm trọng hơn.

Sự khởi đầu của tình trạng này thường là kết quả của sự trao đổi chất i-ốt bị suy giảm, một yếu tố quan trọng để tổng hợp các hormone tuyến giáp. Đặc biệt, việc thiếu i-ốt sẽ tạo điều kiện cho TSH kích thích mãn tính và liên tục, từ đó gây ra sự mở rộng dần dần của tuyến.

Thiếu iốt có thể là thứ phát do chế độ ăn uống thiếu nguyên tố này,

Bướu cổ do môi trường. Một số thức ăn có thể kích thích hình thành bướu cổ (ví dụ bắp cải, củ cải và sắn).

Bướu cổ do dư thừa iốt trong chế độ ăn uống. Ví dụ, ở Nhật Bản, nơi tiêu thụ nhiều rong biển và cá, lượng iốt cao chứa trong những thực phẩm này kích thích hoạt động của tuyến giáp, do đó có thể tăng kích thước tuyến giáp.

Sự gia tăng thể tích của tuyến giáp cũng có thể phụ thuộc vào các khiếm khuyết bẩm sinh và di truyền liên quan đến quá trình tổng hợp hormone tuyến giáp (ví dụ như thiếu vận chuyển iodide hoặc hoạt động của thyroperoxidase).

Các nguyên nhân khác có thể là do các bệnh tự miễn dịch và tình trạng viêm phát triển ở tuyến giáp, chẳng hạn như viêm tuyến giáp Hashimoto, bệnh Graves, và sự tăng sinh mô có nguồn gốc khối u.

Việc sử dụng một số loại thuốc (chẳng hạn như lithium, phenylbutazone và amiodarone) cũng có thể góp phần vào sự phát triển của tình trạng này.

Bướu cổ không độc cũng được quan sát thoáng qua ở tuổi dậy thì, mang thai và mãn kinh.

Nguyên nhân gây bướu cổ

3. Dấu hiệu của bệnh bướu cổ

Thông thường, triệu chứng phì đại tuyến giáp (tăng sản) biểu hiện như sưng không đau ở vùng cổ trước, có thể thấy rõ khi nuốt.

Bướu cổ có thể hầu như không sờ thấy, to lên rõ rệt hoặc rất to.

Khi sự gia tăng kích thước của tuyến giáp là do cường giáp và suy giáp, các biểu hiện đặc trưng của bệnh cơ bản được thêm vào bướu cổ.

Nếu sưng quá mức, nó có thể là một vấn đề thẩm mỹ và khối này có thể chèn ép khí quản và thực quản bên dưới, gây khàn giọng, khó nuốt, tắc nghẽn tĩnh mạch trên mặt (do nén các tĩnh mạch ở cổ) và khó thở.

Đôi khi, sưng và đau có thể xảy ra do chảy máu tự phát xảy ra bên trong u nang hoặc khối u.

Trong một số ít trường hợp (10%), bướu cổ nằm sau xương ức, tức là nó nằm ở trung thất, do tuyến giáp di chuyển xuống dưới hoặc hiếm gặp hơn là do lạc vị (sắp xếp các cơ quan ở vị trí giải phẫu sai) của tuyến. Ở vị trí này, nó có thể cản trở sự xâm nhập của các mạch máu và dây thần kinh vào ngực, điều này có thể được chứng minh bằng dấu hiệu của Pemberton: có sự yếu và sung huyết trên khuôn mặt khi hai cánh tay giơ lên ​​​​trên đầu, một cử động làm di chuyển tuyến giáp ngang tầm với lối vào lồng ngực.

4. Làm thế nào để ngăn ngừa bệnh bướu cổ?

Bướu cổ khởi phát do thiếu i-ốt có thể được ngăn ngừa bằng chế độ ăn uống cung cấp đủ i-ốt (chủ yếu có trong muối i-ốt, cá, trứng và sữa).

Mặt khác, phải chú ý đến việc tiêu thụ nhiều tảo và bướu cổ môi trường (bắp cải, súp lơ, củ sắn), vì chúng có thể gây ra sự kích thích quá mức của tuyến giáp và do đó gây ra bướu cổ.

Cuối cùng, cần chẩn đoán và điều trị sớm các bệnh tự miễn tuyến giáp (viêm tuyến giáp Hashimoto và bệnh Graves) vì về lâu dài có thể gây bướu cổ.

5. Cách điều trị bướu cổ

Điều trị bướu cổ phụ thuộc vào nguyên nhân:

Nếu bướu cổ do thiếu i-ốt thì chỉ cần bổ sung iốt vào chế độ ăn là đủ.

Ở những bệnh nhân bị suy giáp, liệu pháp thay thế bằng hormone tuyến giáp được chỉ định, trong khi ở những người bị cường giáp, sẽ được đánh giá xem có nên tiến hành điều trị nội khoa, cắt bỏ tuyến giáp hay điều trị bằng iốt phóng xạ.

Với sự hiện diện của một bướu cổ lớn, điều trị phẫu thuật (cắt bỏ tuyến giáp) được chỉ định.

Tóm lại, khi bị bướu cổ cần có sự kiểm tra và theo dõi của bác sĩ nhằm đưa ra phương thúc điều trị đúng với nguyên nhân gây bệnh. Bạn không nên tự đoán và tự chữa theo các phương pháp dân gian, đã có rất nhiều trường hợp bướu cổ bị biến chứng nặng hơn khi không được điều trị đúng.


1 lượt xem0 bình luận

Bài đăng liên quan

Xem tất cả
bottom of page